Từ sau chiến tranh, nhiều quốc gia lâm vào tình trạng kinh tế kiệt sức do những cuộc chiến này mang lại đã hao tốn nhiều nguồn lực. Nhật Bản là một trong số những nước có thể nói là thê thảm nhất sau những cuộc chiến này khi mà nền kinh tế của họ khủng hoảng nghiêm trọng. Nhưng giờ đây họ vươn mình trở thành một trong những nước có nền kinh tế đứng đầu Châu Á và thế giới. Bài viết sẽ cung cấp thông tin về nền kinh tế Nhật Bản trong những năm 2000 cho đến nay.
1. Giới thiệu đôi nét về Nhật Bản
Nhật Bản được dịch từ tiếng Hán tức là mặt trời – 日本, do đó mà quốc gia này còn có tên là đất nước mặt trời mọc. Đứng thứ 62 thế giới về diện tích vùng lãnh thổ với 377.972,28 km2, kéo từ bờ biển Okhotsk tại miền Bắc cho đến phái Nam biển Đông Hải.
Biên giới phía đông là Hàn Quốc và Nga đã cho Nhật Bản điều kiện về thương mại quốc tế thuận tiện. Đặc biệt là quốc gia này còn là nơi sở hữu nhiều đảo nhất với con số lên đến 7000 đảo, trong đó có 5 hòn đảo lớn được nhiều người biết đến và sinh sống gồm Okinawa, Hokkaido, Shikoku, Kyushu, Honshu.
2. Kinh tế Nhật Bản từ năm 2000 đến nay
Nền kinh tế của quốc gia này trải qua một đợt khủng hoảng trong năm 1990 với sự bắt đầu của một định nghĩa tên là kinh tế bong bóng Nhật Bản, khái niệm này đã xuất hiện từ khoảng cuối những năm 1980 và đưa khủng hoảng tài chính lên đến đỉnh điểm ở năm 1997-1998.
Khi nền kinh tế nước này gặp khủng hoảng ở năm 1990 đã có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế trong nước từ khoảng năm 2000 đến hiện tại, đây vừa là một khóa cạnh cho Nhật Bản nhìn ra những điểm yếu của họ ở việc phục hồi nền kinh tế và đưa ra những lý do dẫn đến thất bại một cách rõ ràng nhất. Chúng ta có thể nhìn ra quá trình phục hồi nền kinh tế nước này qua những giai đoạn như sau:
2.1 Giai đoạn phục hồi và tăng trưởng với tốc độ vừa phải (2000 – 2005)
Bước sang một thập kỷ mới từ sau một thập kỷ với đầy những khó khăn và biến động và đây còn là sự bắt đầu trong một thiên niên kỷ, tuy là nền kinh tế Nhật Bản vẫn đang ở một trái thái khá bế tắc và suy thoái kéo dài ở thời điểm này.
Giai đoạn kinh tế Nhật Bản từ năm 2000 mắc phải những khó khăn chủ yếu là các khoản vay không dễ đòi cùng sự khủng hoảng ở cơ cấu phát triển nước này. Trong năm 2001, ông Koizumi, thủ tướng đương thời đã thi hành những cách thức riêng biệt.
Một vài cách thức cải thiện mà chính phủ nước này áp dụng bao gồm: xóa nợ, mua lại những ngân hàng và các tổ chức đang trên đà phá sản, tiến hành chính sách cải cách nền kinh tế, và để hoàn thành những khía cạnh này thì Nhật Bản đã thi hành 7 chương trình cơ bản sau đây:
Thúc đẩy quy trình tư nhân hóa, bên cạnh đó cắt giảm sự tác động của chính phủ ở những lĩnh vực của nền kinh tế. Tiến hành đánh mạnh vào 3 khía cạnh quyền lực của nền kinh tế gồm chính trị gia, quan chức và giới chủ. Nhất là đánh mạnh vào tư nhân hóa cũng như cắt giảm chi tiêu công.
Thúc đẩy đầu tư trong nước từ tư nhân
Nâng cao bảo hiểm và lợi ích xã hội.
Đẩy mạnh những nguồn lực phục vụ yêu cầu trong nền kinh tế nước này.
Nâng cao điều kiện sinh hoạt, làm việc cho người dân.
Nâng cao yếu tố tự chủ trong chính quyền các địa phương.
Cải cách hành chính để hình thành một bộ máy nhà nước tinh gọn cũng như tối ưu hiệu quả.
2.2. Giai đoạn suy thoái nghiêm trọng (2006 – 2010)
Tỷ lệ lạm phát của kinh tế nhật bản từ năm 2000 đã được nâng lên đến 1,2% và đây cũng chính là ngưỡng tăng lớn nhất kể từ sau năm 1998. Đa số những doanh nghiệp đều lâm vào con đường phá sản khi mà giả cả nguồn cung đầu vào tăng cao. Đồng nội tệ bị nâng giá lĩnh vực xây dựng bị đình trệ do sự thay đổi của các chính sách và điều luật ở đây.
Đến đầu tháng 3 năm 2006, trái phiếu của những khoản vay trong 1 thập kỷ của chính phủ nước này nâng cao mà vẫn thanh toán 1,65%, trong khi đó khoảng 1 năm, mức trái phiếu tương tự ở cơ quan nhà nước Mỹ là 4,75%.
Từ đó mà dẫn đến rất nhiều các hậu quả trầm trọng có sự ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn này. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao tuy nhiên không đủ lực lượng lao động có tính chuyên môn cao, đặc biệt là lượng lao động ở mảng kỹ thuật công nghệ. Nhiều doanh nghiệp đã phải nhập khẩu lao động từ nước ngoài về. Đây còn là giai đoạn mà cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra ở quy mô toàn thế giới.
2.3. Giai đoạn phục hồi của tình hình kinh tế Nhật Bản (từ 2010 đến nay)
Bắt nguồn từ sự cố gắng tiến hành những phương thức phòng chống khủng hoảng mà ở tháng 4 năm 2009, nền kinh tế nước này đã bắt đầu chậm lại quá trình suy thoái. Những hoạt động ở quá trình xuất khẩu và sản xuất được phục hồi và lĩnh vực điện máy, ô tô có sự thành công rực rỡ. Nhật Bản có được nhiều mối giao thương với nước ngoài về mảng linh kiện, phụ tùng.
Khi nền kinh tế Nhật Bản từ năm 2000 được quay trở lại thể hiện rõ ràng từ yếu tố thị trường chứng khoán tăng trưởng vượt bậc. Theo đó, cho đến khoảng đầu năm 2018, cổ phiếu của quốc gia này đã lên đến khoảng 24,000 Yên, đó là lần đầu trong suốt 26 năm giá chứng khoán của Nhật có mức giá lớn như thế. Điều này thể hiện tỷ lệ giảm phát đang tăng lên nhanh chóng. Đứng trước sự tối ưu về hoạt động của doanh nghiệp Nhật Bản, có nhiều nhận định đã nói rằng quốc gia này đang trên đà tăng trưởng kinh tế trở lại một cách vượt bậc.
3. Tìm hiểu thêm về 4 vùng kinh tế Nhật Bản
Nhật Bản là một đất nước nổi tiếng với điểm đặc trưng là nhiều hòn đảo và từ đây mà hình thành nên các vùng kinh tế trọng điểm gồm có:
Vùng kinh tế ở đảo Honshu là một phạm vi có diện tích lớn nhất cùng người dân tập trung đông đảo. Vùng này có nền kinh tế được xem là có tốc độ phát triển vượt bậc nhất. Một vài trung tâm công nghiệp được nhiều người biết đến ở đảo này gồm Tokyo, Yokohama, Osaka, Kobe, Nagoya, Kyoto hình thành chuối những đô thị lớn nhất của Nhật.
Vùng kinh tế ở đảo Kiuxiu đánh mạnh vào việc phát triển lĩnh vực công nghiệp nặng. Đây là nơi không thiếu những trung tâm công nghiệp hàng đầu như Nagasaki, Phucuoca,… có rất nhiều cây công nghiệp và ăn quả được trồng ở miền Đông Nam hòn đảo.
Vùng kinh tế đảo Xicocu được biết đến với yếu tố khai thác quặng đồng. Nhưng lĩnh vực này có vị trí quan trọng. Tại đây vừa là trung tâm vừa sử dụng được sự phát triển tối ưu cùng nhiều yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư đa quốc gia.
Vùng kinh tế ở đây được phủ quanh phần lớn bởi diện tích rừng. Ở đây có mật độ dân cư thưa thớt và đánh mạnh vào những lĩnh vực công nghiệp gồm sản xuất giấy, khai thác sắt, than, luyện kim,…
Lời kết
Và đó là những thông tin về nền kinh tế Nhật Bản trong những năm 2000 đến nay. Có thể thấy một trong những lý do chính yếu khiến cho đất nước mặt trời mọc này vươn lên tột bậc một cách thần kỳ như vậy là nhờ vào con người, người dân nơi đây đồng lòng, quyết chí đưa quốc gia mình thoát cảnh đói nghèo.