Khi nhắc đến nền kinh tế trong một quốc gia thì chỉ số GDP là một thông số được nhắc đến nhiều nhất, về cơ bản thì GDP là một trong số những thông số về kinh tế có sở nhằm nhận định được sự phát triển của nền kinh tế. GDP được chia ra làm 2 loại đó là GDP danh nghĩa và GDP thực, đây là điều mà còn xa lạ với nhiều người. Bài viết sẽ cung cấp thông tin về khái niệm này, đặc điểm cũng như so sánh nó với GDP thực.
1. GDP danh nghĩa là gì?
GDP danh nghĩa dịch sang tiếng Anh là Nominal Gross Domestic Product, ghi ngắn gọn là Nominal GDP. Khái niệm này được hiểu là tổng sản phẩm quốc nội đo lường trên mức giá thị trường hiện tại, nó còn là giá trị bằng tiền của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong một nước.
Thông số này được phân biệt với GDP thực ở khía cạnh là nó có thể tính toán sự biến động mà lạm phát đem lại, thể hiện sự tăng lên của giá trong nền kinh tế.
Ở nước ta, GDP được xem là thông số được đo lường dựa trên toàn bộ những loại sản phẩm, các hình thức dịch vụ được tạo ra ở một vùng lãnh thổ tính trong một mốc thời gian cụ thể. Lúc này có thể thấy mốc thời gian để đo lường giá trị của GDP ở từng lĩnh vực dịch vụ hay hàng hóa, thông thường khoảng 1 tháng đến 1 năm tùy vào các mảng kinh doanh chi tiết. GDP là thông số nhằm đo lường toàn bộ những hàng hóa dịch vụ ở trong nền kinh tế quốc gia, tính luôn những doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam.
2. Đặc điểm của GDP danh nghĩa
GDP danh nghĩa là thông số đo lường việc sản xuất kinh tế tại một quốc gia cụ thể tính ở mức giá hiện tại. Hoặc cũng có thể xem là khái niệm này tính luôn cả yếu tố lạm phát và tốc độ giá đi lên, có thể nâng cao mức tăng trưởng. Toàn bộ sản phẩm hay dịch vụ đo lường ở GDP được tính toán dựa vào mức giá thị trường trong ngày tại năm đó.
Chính vì GDP danh nghĩa đo lường ở ngưỡng giá hiện tại, do đó mà sự tăng lên của GDP năm này đến năm khác thể hiện qua sự tăng trưởng của giá, tuy nhiên lại đi ngược với sự phát triển của mức hàng hóa hay dịch vụ được hình thành. Khi toàn bộ ngưỡng giá tăng lên hay giảm cùng nhau thì lúc này người ta gọi là lạm phát hay giảm phát, khi đó mức GDP danh nghĩa sẽ cao hơn. Lạm phát là khía cạnh tiêu cực với các đối tượng trong nền kinh tế vì nó giảm thiểu đi sức mua hay tiết kiệm với cả người tiêu dùng cuối hay nhà đầu tư. Lạm phát được tính toán rộng rãi nhất thông qua việc dùng chỉ số giá tiêu dùng CPI hay chỉ số sản xuất PPI.
Thông số CPI tính toán sự biến động giá dựa vào xu thế của thị trường hay cách mà sự biến động giá ảnh hưởng đến thành phần thị trường. Chỉ số PPI lại là chỉ số tính toán sự biến động bình quân của giá bán chi trả cho những bên sản xuất ở nền kinh tế. Khi ngưỡng giá chung ở nền kinh tế đi lên, người ta tiêu dùng nhiều hơn nhằm giao dịch ở cùng lượng sản phẩm . Khi mà doanh thu cá nhân tăng lên khoảng 10% ở một khung thời gian cụ thể tuy nhiên mức lạm phát tăng cao 10% thì doanh thu cá nhân hay sức tiêu dùng giữ nguyên.
3. So sánh GDP thực và GDP danh nghĩa
Như đã đề cập, khi đặt lên bàn cân sự phát triển GDP giữa hai giai đoạn, thông số GDP này có thể vượt cao hơn mức tăng trưởng khi có bao gồm lạm phát. Những nhà kinh tế học dùng giá sản phẩm ở một năm làm gốc và là mốc để đối chiếu khi so sánh thông số này qua các năm. Sự thay đổi của mức giá ở năm gốc so với năm hiện tại được xem là thông số giảm phát GDP. Khi tăng giá lên 1% so cùng với năm gốc thì mức giảm phát sẽ là 1 + 1% tức là 1,01. Tổng quan thì GDP thực là cách đo lường ổn hơn khi so sánh hai khái niệm GDP này ở các năm. GDP thực sẽ được tính qua việc lấy GDP danh nghĩa trừ cho sự biến động giá qua các năm, tức là trừ đi lạm phát hay giảm phát.
Ví dụ: ở tình huống mà GDP danh nghĩa trong năm hiện tại khoảng 2 triệu Đô, trong khi chỉ số giảm phát GDP thể hiện giá tăng khoảng 1% so với năm mốc, khi đó chỉ số GDP thực sẽ được đo lường như sau:
GDP thực = $2.000.000 / 1.01 = $1.980.198
Một trong số các nhược điểm trong việc dùng thông số này đó là khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái hay là giai đoạn mà mức tăng của GDP nhỏ hơn. Sự tăng trưởng dưới 0 này có khả năng đến từ giá giảm, hay còn gọi giảm phát. Khi giá đi xuống cùng tốc độ cao ở ngưỡng tăng trưởng sản xuất, chỉ số GDP danh nghĩa có khả năng thể hiện độ phát triển ở tổng thể nền kinh tế. Khi thông số này âm thể hiện nền kinh tế đang suy thoái tuy nhiên thực tiễn thì mức tăng lãi suất thì dương.
4. Ý nghĩa của chỉ số GDP
GDP hoặc còn có thể xem là tổng sản phẩm quốc nội, đây là chỉ số mà nó đo lường toàn bộ những hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ, lĩnh vực mà ngay cả những doanh nghiệp nước ngoài ở tại nước đó cũng được tính. GDP là cách để phân tích về độ phát triển trong nền kinh tế ở một địa điểm hay một nước, bên cạnh đó còn phản ánh sự thay đổi của hàng hóa hoặc dịch vụ theo thời gian.
Khi GDP suy thoái sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cả nền kinh tế một nước, làm cho hiện tượng về lạm phát, sự giảm giá trị đồng tiền, thất nghiệp,… diễn ra. GDP giảm sút còn tác động trực tiếp đến sự vận hành từ những tổ chức và cuộc sống người dân. Từ thông số GDP tính trung bình đầu người thì ta có thể nhìn nhận được khoản thu nhập tương đối hay là cuộc sống an sinh xã hội của từng nước thế nào.
Nhưng dĩ nhiên là chỉ số GDP này cũng có một số những nhược điểm như:
Không thể hiện được toàn bộ những hoạt động kinh doanh sản xuất hàng hóa hay chất lượng của chúng.
Không tính toán được cụ thể sự phát triển trong nền kinh tế một nước hay chất lượng an sinh xã hội.
Chỉ tính đến hình thành ra hàng hóa cuối cùng và hình thành vốn mới, không tính đến sự hợp tác giữa những tổ chức.
5. Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chỉ Số GDP
3 yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số GDP là:
Dân số: GDP và dân số có sự liên kết 2 chiều, dựa vào tình hình dân số nhằm đo lường GDP trung bình đầu người. Dân số được xem là lực lượng lao động hình thành của cải và cũng là đối tượng sử dụng sản phẩm hay dịch vụ.
FDI: thông số đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có sự ảnh hưởng đến GDP. Phương thức đầu tư từ nước ngoài thông qua vật chất, kiến thức, công nghệ, tiền bạc, phương tiện,…
Lạm phát: đây là yếu tố làm cho đồng tiền bị mất đi giá trị, vật giá đi lên liên tục ở một khoảng thời gian. Lạm phát quá cao sẽ làm cho nền kinh tế bị khủng hoảng và bị lầm tưởng là GDP tăng lên.
Lời kết
Và đó là những thông tin về chỉ số GDP danh nghĩa mà bạn cần quan tâm. Có thể thấy đây là chỉ số quan trọng để những quốc gia khác, những nhà đầu tư phân tích được tiềm năng lợi nhuận mà nền kinh tế quốc gia đó có thể mang lại. Và khi đi sâu hơn thì cả khái niệm này và GDP thực đều phải được hiểu rõ.